Nấm colactus thuộc họ Tricholomaceae. Nó có một số giống, trong đó những người hái nấm nổi tiếng nhất là yêu gỗ, lamellar rộng, dầu và fusiform.
Mô tả về nấm xương chày và các giống của nó
Đặc điểm chung
Tất cả các thành viên của chi Collactus có đặc điểm tương tự:
- Mũ: Thịt mỏng, trong những trường hợp hiếm hoi có thịt phát triển tốt, kích thước nhỏ, đường kính không quá 2 cm, hình dạng lồi ở giai đoạn tăng trưởng ban đầu, sau đó lan rộng, trong các mẫu vật trưởng thành xuất hiện ở phần trung tâm, ở nấm non, nó có các cạnh. , màu nhạt trong các sắc thái của màu trắng, nâu và vàng.
- Màng trinh: được hình thành bởi các tấm thường xuyên bám vào các gốc của thân nấm hoặc tự do, màu sắc của các tấm màng trinh có thể là màu kem nhạt hoặc nâu nhạt.
- Chân: mỏng, phủ một lớp hoa ít ỏi, phần dưới của chân thường có lông, hình dạng của chân thường chẵn, hình trụ, trong một số trường hợp bị sưng.
Một số loại xương chày hình thành xơ cứng.
Địa lý phân phối
Chi Colactus phổ biến rộng rãi ở các vĩ độ ôn đới ở các vùng lãnh thổ châu Âu và Bắc Mỹ. Tổng cộng, có khoảng 70 giống, ở Nga có khoảng 20 loài. Do kích thước nhỏ của nắp, nấm thuộc chi này thường được gọi là "tiền". Tên đồng nghĩa như vậy được coi là khá khoa học.
Xương chày là loài hoại sinh mọc trong rừng lá kim và rụng lá trên thân quả thối của các loại nấm khác, trên rác rừng và gỗ khô, thích cỏ và rêu. Trong những trường hợp hiếm hoi, họ định cư trên cây sống.
Đẳng cấp
Chân xoay
Xương chày xương chày mọc trên gốc và rễ của những cây rụng lá già, thích gỗ sồi và sồi. Một chiếc mũ có đường kính 4,0-8,0 cm, với một củ cùn. Bột giấy là khó khăn. Chân hình trục chính dài 4-8 cm, dày 0,5-1,5 cm. Dải màu nằm trong sắc thái màu nâu đỏ.
Phổ biến rộng rãi trong các khu rừng châu Âu. Thời kỳ đậu quả là vào mùa hè và mùa thu. Nó được coi là không ăn được, tuy nhiên, có những trường hợp sử dụng mẫu vật trẻ với phẩm chất ẩm thực tinh tế. Mẫu vật phát triển quá mức gây ngộ độc nhẹ.
Dầu
Dầu xương chày thích rừng lá kim, mọc ở các thuộc địa. Thời gian đậu quả là từ tháng 7 đến tháng 11.
Chiếc mũ có đường kính 2-12 cm, bề mặt nhẵn, khi hơi ẩm vào, nó trở nên nhờn, trở thành yếu tố quyết định tên của loài.
Irina Selyutina (Nhà sinh vật học):
Phần thịt của nắp của xương chày có một đặc điểm thú vị - hygrophane, tức là Nó có khả năng sưng khi tiếp xúc với độ ẩm. Điều này xảy ra do thực tế là trama (mô giả) của bột giấy như vậy được thể hiện bằng một sợi dệt lỏng lẻo. Và chính trong những khoảng trống giữa chúng, nước được giữ từ môi trường. Mũ Gigrofannye có khả năng thay đổi màu sắc tùy theo thời tiết. Vì vậy, khi khô, các vùng đồng tâm xuất hiện trên bề mặt của chúng và phân bố của chúng có thể đi từ tâm đến cạnh hoặc ngược lại.
Màu nâu hoặc màu đỏ. Thân cây nấm dài 2-10 cm dày 0,4-1,0 cm, thường rỗng, cứng, bề mặt nhẵn. Nó thuộc về loài ăn được.
Lười biếng
Nấm phát triển ở các thuộc địa
Colliery yêu gỗ phát triển trong các thuộc địa nhỏ trong rừng hỗn hợp cùng với gỗ sồi và thông, thích gỗ mục nát và lá rụng. Thời kỳ ra hoa là tháng 6-11.
Chiếc mũ có đường kính 1-7 cm, màu sắc ban đầu là nâu đỏ, sau đó có tông màu cam hoặc nâu vàng. Phần thịt của nắp mỏng, màu trắng, đặc trưng bởi sự hiện diện của hút ẩm. Chân nấm dài 3-9 cm và dày 0,2-0,8 cm. Yêu xương gỗ thuộc về loài ăn được.
Chán
Các colliery đông đúc được tìm thấy gần những con đường cỏ, trong những khoảng trống trong rừng lá kim, trong khu vực đồi núi.
Mũ có đường kính 1-4 cm, lồi trong mẫu vật trẻ và thẳng ở người lớn. Bề mặt bóng loáng. Màng trinh có màu hồng nhạt. Chân có dạng hình trụ, cao 5-10 cm, dày tới 3 mm. Thời kỳ đậu quả là vào mùa xuân-thu.
Nấm thuộc về các giống ăn được, nhưng nó không có nhiều giá trị ẩm thực do kích thước nhỏ.
Lamellar rộng
Colescent rộng lamellar thuộc về nấm lamellar sớm. Mọc đơn hoặc ở các thuộc địa nhỏ. Nó là một loài hoại sinh, thích những gốc cây thối của những cây lá rộng.
Một chiếc mũ có đường kính 5-12 cm, nứt hoàn toàn trong thời tiết khô. Một củ vẫn còn ở trung tâm của nắp. Ở nấm trưởng thành, các cạnh có thể uốn cong lên. Bề mặt màu xám hoặc nâu. Thân cây nấm 4-15 cm, hình trụ, mở rộng ở gốc, dày đặc về cấu trúc.
Nó thuộc về loài ăn được.
Yêu nước
Yêu nước, hay thánh ca yêu nước, mọc trong rừng ở vùng đất ngập nước với nước tù đọng, gần lối đi lên mặt nước ngầm, thích rêu, cỏ và đất giàu mảnh vụn gỗ. Thời kỳ ra hoa là giữa tháng 5-11.
Mũ nấm có đường kính lên tới 6 cm, ban đầu có chẵn, sau có viền lượn sóng. Bề mặt mịn màng. Màu thường là kem, nâu nhạt. Chân dài tới 8 cm, dày 0,2-0,4 cm, ở dạng hình trụ.
Nó thuộc về giống ăn được.
Collybia butyracea là một loại nấm ăn vào cuối mùa thu.
Collybia lesophilous, hoặc mật ong mùa xuân (Collybia Dryophila / Gymnopus Dryophilus)
Collactus butyracea (Rhodocollybia butyracea)
Phần kết luận
Colactus thuộc nhóm nấm lamellar cơ bản thuộc họ Ryadovkovy. Đó là một saprotroph. Nó có một số giống, hầu hết trong số đó là ăn được hoặc có điều kiện ăn được.